Làng hiện nay có khoảng 40 hộ gia đình sống chính thức bằng nghề tiện. Ngoài ra còn có nhiều hộ gia đình làm nghề nông là chính lúc rảnh rỗi phụ thêm làm đồ tiện - Những đồ loại dễ như cối, chày, mâm, đài câu cá, cán các loại dao, liềm, đục, cán con dấu đồng v. v...
Làng hiện nay có khoảng 40 hộ gia đình sống chính thức bằng nghề tiện. Ngoài ra còn có nhiều hộ gia đình làm nghề nông là chính lúc rảnh rỗi phụ thêm làm đồ tiện - Những đồ loại dễ như cối, chày, mâm, đài câu cá, cán các loại dao, liềm, đục, cán con dấu đồng v. v...
Nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 30km về hướng Tây Bắc; chính là thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, tỉnh Bình Định. Từ cách đây hàng mấy trăm năm; tiện gỗ đã là nghề truyền thống ở Nhạn Tháp.
Để làng nghề có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa; đích thân những vị tiên chỉ của ngôi làng này đã ra Bắc; để mời những người thợ lành nghề từ một làng gỗ nổi tiếng ở: làng nghề La Xuyên – Nam Định; Chàng Sơn – Thạch Thất, Phú Xuyên – Thường Tín – Hà Nội, Đồng Kỵ – Bắc Ninh…; về để truyền nghề. Chính những người thợ này đã giúp cho ngôi làng phát triển và thăng hoa nhanh chóng; bởi họ đã cất công về lại Bắc Ninh để có thể mời gọi thêm những tay thợ giỏi tiếp theo vào Nhạn Tháp.
Từ năm 2000 đến năm 2006 có thể nói là thời kỳ cực thịnh của làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp. Bởi ở giai đoạn này những loại gỗ quý như: cẩm lai, trắc gai, trầm thị, chò chỉ,…; vẫn còn nguồn cung cấp dồi dào và đem lại lợi nhuận cao. Bắt đầu từ nơi tiêu thụ chính là tỉnh Bình Định; lâu dần các sản phẩm của làng Nhạn Tháp tiếp tục được tiêu thụ ở Trung Quốc. Đôi khi, chính những thương nhân Trung Quốc đã phải cất công về tận làng nghề để đặt mẫu.
Cho tới năm 2007, làng nghề này được nới rộng ra thôn Vân Sơn; và phát triển thành một cộng đồng tiện gỗ nghệ thuật rộng lớn. Chính nhờ sự phát triển mạnh mẽ này mà từ đó; làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp đã được UBND tỉnh Bình Định ra công văn; đổi tên thành làng nghề truyền thống tiện gỗ mỹ nghệ Nhơn Hậu.
Trước đây, các sản phẩm chủ lực của làng nghề là: lục bình; chân bàn ghế, các trụ chỉ tròn;… Các sản phẩm được làm từ gỗ quý hiếm nên có giá thành khá cao. Đặc biệt, các sản phẩm làm ra đều rất tinh xảo nên được ưa chuộng nhiều ở thị trường Trung Quốc.
Tuy nhiên, những thay đổi về thời gian khiến lượng gỗ quý dần khan hiếm; cùng với đó là hướng khách hàng được thay đổi. Vì muốn hướng tới khách hàng trong nước; nên làng nghề đã bắt đầu chuyển sang sử dụng những loại gỗ phổ biến và có nguồn cung dồi dào như: mít, xoan, kéo; để sản xuất ra các loại đồ thờ cúng như: lư hương, lục bình, chân đèn, án thờ; hay tủ bàn, đèn thờ, gạt tàn, quả địa cầu, bộ bình trà,…
Các sản phẩm chủ yếu của làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp là các đồ thờ tự và các đồ dùng trong gia đình. Các nghệ nhân sẽ sử dụng đôi bàn tay tài hoa, khéo léo và đôi mắt thẩm mỹ; kết hợp với năng khiếu về nghệ thuật để tạo ra các sản phẩm mỹ nghệ độc đáo và đẹp mắt; cùng những hoa văn, họa tiết hay hình dạng nổi bật.
Nếu so về chất lượng thì các sản phẩm của làng Nhạn Tháp tinh xảo hơn rất nhiều; nhưng giá thành lại rất hợp lý. Đây cũng chính là lý do vì sao mà làng Nhạn Tháp lại được nhiều khách hàng tín nhiệm và lựa chọn như vậy.
Trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm khác nhau; làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp vẫn luôn giữ gìn được truyền thống để tạo ra các sản phẩm gỗ mỹ nghệ mang tính nghệ thuật và giá trị nhân văn cao.
Khi cuộc sống ngày càng thay đổi và được nâng cao; nhu cầu về cái đẹp cũng lớn thì các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ của Nhạn Tháp không chỉ dừng lại ở việc phục vụ đời sống hàng ngày; mà con mang nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Chính điều này đã giúp cho làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp vươn lên và phát triển mạnh mẽ hơn trên thị trường.
Trên đây là những thông tin chi tiết về làng nghề tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp . Cảm ơn bạn đã theo dõi!
Cách Hà Nội khoảng 20km về phía Nam, ở huyện Thường Tín có làng nghề tiện gỗ Nhị Khê (trước thuộc tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội), tên Nôm là làng Dũi, nổi tiếng với nghề tiện gỗ nên dân gian thường gọi là làng Dũi Tiện.
Theo ghi chép trong những cuốn gia phả của các dòng họ sinh sống lâu năm tại địa phương thì xưa kia vùng đất này có tên là Trại Ổi (hay Ngọc Ổi).
Tương truyền đây là vùng đất đẹp, phong cảnh trữ tình. Thế nên vào thời Lý, ngự trên thuyền rồng xuôi theo dòng Tô Lịch về phía nam kinh thành nhà vua thường du ngoạn thăm thú cảnh vật thấy nơi đây đất đai trù phú, cây cối đôi bên bờ sông hoa nở rực rỡ, nên đã đặt tên vùng này là Nhụy Khê (nghĩa là suối hoa).
Từ xa xưa, làng nghề tiện gỗ Nhị Khê đã được xem là vùng đất địa linh sinh nhân kiệt, đã sản sinh, nuôi dưỡng tâm hồn nhiều danh nhân văn hóa.
Nghề tiện gỗ xuất hiện ở Nhị Khê khoảng hơn 300 năm. Ở đây, hầu như cả làng ai cũng biết làm nghề tiện, ai cũng tự hào và thuộc lòng câu ca dao “Dũi tiện có cây bồ đề, Có sông Tô Lịch, có nghề tiện mâm”
Bằng sự sáng tạo và bí quyết cổ truyền, những thợ làng nghề tiện gỗ Nhị Khê có thể sản xuất hơn 200 loại mặt hàng khác nhau.
Từ những mặt hàng truyền thống như mâm gỗ, ống hương, ấm ủ nước, thoi dệt, lõi chỉ, bàn trà đẹp, chân ghế, chấn song cửa, chân bàn ăn gỗ … đến những chiếc chiếu gỗ, đệm ghế ô tô, mành cửa, chuỗi hạt trang trí … được tiện từ gỗ, rất tinh xảo.
Đúng như câu ca được truyền tụng “Nhị Khê thợ tiện làm nên đủ đồ”
Về công cụ sản xuất, lúc trước nghệ nhân làng Nhị Khê thường sử dụng chiếc máy tiện trước đây còn thô sơ, đạp bằng chân với hai cây tre nhịp nhàng lên xuống, bánh xe quay bằng gỗ, dây quay bằng thừng hay dây da, quay đi quay lại hai chiều, không có ổ bi.
Ngày nay cỗ máy tiện của làng nghề tiện gỗ Nhị Khê được cải tiến, chạy bằng mô tô điện kĩ thuật nâng cao, sản phẩm càng dồi dào.
Hiện nay, người thợ Nhị Khê, ngoài sản xuất hàng tiện bằng gỗ, còn làm các mặt hàng bằng sừng trâu bò, ngà voi, ốc trai; nhiều sản phẩm quý hiếm được xuất khẩu.
Có thể khẳng định, ở làng nghề tiện gỗ Nhị Khê, nghề tiện không chỉ đơn thuần là một nghề mưu sinh, những sản phẩm tiện gỗ tinh xảo của người thợ Nhị Khê đã góp phần làm nên nét tài hoa, khéo léo, nét đẹp văn hóa của quê hương Thường Tín, của mảnh đất Thăng Long – Hà Nội.
Nghề tiện gỗ tại xã Nhị Khê (huyện Thường Tín, Hà Nội) tồn tại cả trăm năm qua, minh chứng cho sức sống của những làng nghề truyền thống.
Chúng tôi ghé thăm làng gỗ xã Nhị Khê vào một buổi chiều cuối năm, mùi gỗ thoang thoảng và không khí tất bật chạy hàng dịp Tết. Những chiếc máy tiện, máy cưa và những đôi bàn tay khéo léo đang hối hả khắp đầu làng ngõ xóm.
Tại ngôi làng nổi danh cả nước với nghề tiện gỗ lịch sử hơn 300 năm, các thế hệ nghệ nhân, thợ lành nghề đã tạo ra nhiều sản phẩm mỹ nghệ độc đáo, trở thành hàng hóa có giá trị nghệ thuật, kinh tế cao được người tiêu dùng ưa chuộng.
Cạnh ngôi nhà thờ Danh nhân văn hóa thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Trãi, suốt hơn 30 năm qua, ngày ngày gia đình anh Nguyễn Toàn vẫn miệt mài tạo ra những chuỗi hạt vòng được làm từ gỗ quý, lưu giữ nghề truyền thống của gia đình.
"Đồ tiện ở Nhị Khê trước kia có hai chủng hàng chính làm từ gỗ là đồ thờ cúng và đồ gia dụng. Đồ thờ cúng gồm có ống hương, lọ hoa, giá nến, đế kê bát hương,... Đồ gia dụng thì có giỏ đựng ấm tích, lọ đựng chè, tượng trang trí, tranh, mành hạt gỗ, chiếu gỗ,… Nhưng hiện nay, nhiều hộ gia đình đang sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đa dạng hơn, phục vụ cho nhu cầu sử dụng khác nhau", anh Toàn kể.
Từ khi lấy chồng là hơn 20 năm trước, chị Thuỷ - vợ anh Toàn cũng theo chồng làm nghề tiện gỗ. Cửa hàng gia đình anh chủ yếu trưng bày đủ các loại tràng hạt với các mẫu mã, hình dạng tròn, hình chữ nhậT...do chính tay vợ chồng anh lựa gỗ, tiện máy và tạo hình. Đối với gia đình anh, Tết đến là dịp bận nhất trong năm vì số lượng đặt hàng và để bán nhiều hơn hẳn, đặc biệt là khi mọi người đi lễ chùa.
Không rõ bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng thời “cha truyền con nối” từ đời ông nội, dù nhiều người trong làng dần chuyển sang công việc khác nhưng gia đình anh Toàn vẫn gắn bó với công việc tiện gỗ, cố gắng lưu giữ nghề gia truyền.
Chia sẻ về nghề làm tiện gỗ thành tràng hạt theo cả đời mình, anh Toàn nói: "Từ xưa, rất nhiều người trong làng đã theo nghề này, đủ các loại sản phẩm từ đồ gia dụng, khuôn bánh, mộc bản, bàn ghế... Mỗi người khi học nghề sẽ bén duyên và thấy rằng mình giỏi cái gì nhất để theo, một trong những cái bản thân tôi thấy phù hợp là làm chuỗi tràng hạt như bây giờ".
Nói về công đoạn làm ra một chiếc tràng hạt, chị Thuỷ cho biết, gỗ thường dùng là gỗ thị già và gỗ xà cừ vì hai loại gỗ này dễ gia công, có độ dẻo, độ rắn, độ bền phù hợp với việc chạm khắc. Sau đó, chồng chị sẽ dùng máy cắt gỗ thành những khúc nhỏ và chị là người làm công đoạn cuối cùng chính là mài nhỏ thành từng hạt vòng tròn.
"Khó nhất là công đoạn đục, từng khâu cần sự tỉ mỉ và độ chính xác cao của người làm, bởi nếu đục không chuẩn sẽ làm mất vân gỗ, mà giá thành của sản phẩm được dựa trên những chiếc hoa văn gỗ này", chị Thuỷ nói.
Theo thời gian, để đáp ứng nhu cầu của thị trường, người thợ Nhị Khê đã cải tiến, sáng tạo ngày càng nhiều sản phẩm mới được làm từ gỗ mít, gỗ de, lim, gụ, trắc, pơmu, bách xanh,… và áp dụng công nghệ từ máy CNC để đục, khắc gỗ phục vụ cho việc sản xuất.
Tại xưởng chuyên sản xuất khay bánh kẹo Tết được làm từ các loại gỗ quý, chị Vũ Thị Thu cho hay, nếu như trước kia, toàn bộ công đoạn làm nghề của địa phương đều phải làm bằng tay, mất rất nhiều thời gian thì nay một số công đoạn đã được máy móc hỗ trợ để tinh giản các bước, giúp làm được nhiều sản phẩm hơn trong một ngày.
Xưởng gỗ nhà chị Thu có 10 thợ chính, nhưng dịp Tết đến, lượng đặt hàng nhiều, chị đã phải thuê thêm thợ ngoài để tăng công suất, thậm chí luôn luôn phải làm việc đến khi ngoài trời đã tối muộn.
Theo chị Thu, khi cầm những sản phẩm gỗ tiện nhẵn bóng, đủ hình thù, kiểu dáng tinh xảo ai cũng trầm trồ, song ít người thấu được sự vất vả của người thợ. Thường ngày, người làm nghề tất bật trong xưởng hơn 10 tiếng đồng hồ, nếu say nghề thì quên cả thời gian.
Tuy nhiên, nhờ vào sự phát triển của công nghệ, gánh nặng của những người thợ tiện đã vơi đi được phần nhiều. Nhớ lại khoảng thời gian trước đây, chị Thu kể: "Hơn 19 năm trong nghề, tôi vẫn luôn nhớ, ba tháng cuối năm là thời điểm bận rộn nhất khi phải làm các đơn đặt hàng cho dịp Tết Nguyên đán".
"Trước kia, trung bình một mùa nhà tôi làm được khoảng hơn 1.000 khay đựng bánh kẹo bằng gỗ, nhưng bây giờ nhờ công nghệ phát triển nên sau khi trang bị mua máy móc hiện đại như máy cưa, máy tiện gỗ, máy dập hạt... năng suất lao động đã tăng gấp nhiều lần. Vì thế, hiệu quả kinh tế của gia đình cũng tốt hơn", người thợ tiện gỗ tại xã Nhị Khê chia sẻ.
Một điểm thú vị tại làng gỗ Nhị Khê là mỗi hộ chỉ sản xuất chuyên một vài mặt hàng, ít trùng nhau. Chính vì vậy, sản phẩm được làm ra luôn chau chuốt, kỹ lưỡng tinh xảo và ít cạnh tranh. Nhờ đó, mỗi gia đình đều có kinh nghiệm, kiến thức riêng truyền lại cho con cháu theo nghề.
Với thâm niên hơn 50 năm theo gia đình làm nghề mộc, bà Nguyễn Thị Quý (65 tuổi) tự hào kể lại: "Hồi bé tôi được thấy ông nội và bố ngày ngày lấy gỗ về rồi chặt nhỏ ra, sau đó mài dũa dần dần thành những món đồ có ý nghĩa. Khi ấy tôi đã thấy rất thú vị".
"Lý do tôi yêu thích nghề tiện gỗ này bởi quá trình tạo ra nó, từ khi chỉ là một thân cây gỗ vô tri cho đến khi tạo thành sản phẩm, người thợ mộc như chúng tôi giống như thổi hồn vào từng sản phẩm", bà Quy kể đó cũng chính là lý do bà truyền lại nghề cho con gái và con rể, rồi lại kể cho cháu trai nghe về công việc mà bà yêu thích và gắn bó cả đời. Cứ thế, người người bảo nhau truyền lửa cho lớp trẻ giữ nghề đến nay.
Là hộ chuyên sản xuất những chiếc lồng chim làm bằng gỗ, bà Quý cùng hai người con trai và con dâu vẫn ngày ngày miệt mài với từng công đoạn để tạo ra một chiếc lồng hoàn chỉnh, với các kích thước khác nhau tuỳ theo đơn đặt hàng và nhu cầu của khách hàng.
Hiện nay, nhà thờ tổ nghề gỗ của xã Nhị Khê vẫn đang được người trong làng nghề bảo tồn, trong đó có nhiều bức đại tự, hoành phi với nội dung giáo dục con cháu giữ gìn tổ nghiệp, đúng như câu ca dao nổi tiếng tại địa phương: “Bao giờ Thường Tín hết cây/Sông Tô cạn nước Nhị Khê bỏ nghề”.
Vào năm 2001, Nhị Khê đã vinh dự đón nhận danh hiệu Làng nghề truyền thống. Đây là niềm vui chung, khích lệ các thế hệ người dân tiếp tục phát triển nghề, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đạt giá trị cao hơn.
Vì vậy, dù trải qua biết bao thăng trầm, gian nan, không ít lần gặp khó khăn muốn bỏ cuộc, nhưng những người dân Nhị Khê như anh Toàn, bà Quý vẫn nói về những đam mê với nghề, nói về tâm nguyện của họ trong việc gìn giữ, phát huy tốt nghề truyền thống cha ông truyền lại.