Theo quy định mới của Liên minh châu Âu, những sản phẩm như cà phê, ca cao, gỗ và cao su…nếu xuất xứ từ vùng đất có rừng bị tàn phá, suy thoái sẽ không được xuất khẩu vào thị trường này.
Theo quy định mới của Liên minh châu Âu, những sản phẩm như cà phê, ca cao, gỗ và cao su…nếu xuất xứ từ vùng đất có rừng bị tàn phá, suy thoái sẽ không được xuất khẩu vào thị trường này.
RAAW COFFEE Thursday, 16 May, 2024
Brazil là nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới trong hơn 150 năm. Hiện nay, Brazil trồng khoảng một phần ba lượng cà phê của thế giới, mặc dù trước đây thị phần của nước này cao tới 80%. Cà phê được du nhập vào Brazil từ vùng thuộc địa Guiana thuộc Pháp vào năm 1727, khi nước này vẫn nằm dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha. Cây cà phê đầu tiên ở Brazil được trồng bởi Francisco de Melo Palheta ở vùng Para ở phía bắc đất nước.
Brazil là nước trồng cà phê lớn hàng đầu thế giới, những thông tin sau đây được thống kê bởi CafeImports vào năm 2017:
Dân số tham gia vào ngành cà phê: Khoảng 360.000 nông dân & công nhân làm thuê cho nông trại.
Quy mô trang trại trung bình: từ nông trại nhỏ 0.5 hecta đến những đồn điền 10,000 hecta.
Sản lượng xuất khẩu hàng năm: 45 – 60 triệu bao (60 kg).
Hoạt động canh tác cà phê Brazil
Giống cà phê phổ biến: Bourbon (đa phần là Bourbon vàng) Typica, Caturra, Catuai, Catimor, Maragogype…
Phương pháp chế biến: Đa dạng, phổ biến là chế biến khô và chế biến theo phương pháp truyền thống Pulped Natural.
Phần lớn cà phê Brazil được giao dịch trên thế giới đều xuất phát từ 6 khu vực chính: Minas Gerais (1.22 Triệu ha); Espirito Santo (433,000 ha); Sao Paulo (216,000 ha); Bahia (171,000 ha); Rondonia (95,000 ha); cuối cùng là Parana (49,000 ha).
Brazil canh tác cả hai loại cà phê chính là Arabica và Robusta, trong đó giống cà phê Arabica vẫn chiếm ưu thế với khoảng 85%; sản lượng còn lại là Robusta. Tại Brazil, canh tác Arabica tập trung trong cụm khu vực cà phê quốc gia và được dẫn đầu bởi Rio. Trong khi đó cà phê Robusta chủ yếu được trồng ở các bang nhỏ hơn như Espirito Santo (bang này hiện cung cấp cho 80% lượng cà phê robusta) và Rondonia – vùng màu cam ở phía Tây bắc.
Brazil có độ cao địa hình tương đối thấp (95% đất đai Brazil nằm dưới 900m so với mực nước biển).
Khởi đầu của thương mại cà phê tại Brazil
Việc sản xuất cà phê thương mại bắt đầu xung quanh sông Paraíba (gần Rio de Janeiro). Khu vực này phù hợp với cà phê, không chỉ vì đất đai lý tưởng, mà còn vì vị trí gần cảng Rio de Janeiro sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho xuất khẩu. Trái ngược với các trang trại cà phê nhỏ hơn từng phát triển mạnh mẽ ở Trung Mỹ, các trang trại thương mại đầu tiên của Brazil là những đồn điền lớn do nô lệ làm công.
Khi đất đai trở nên cạn kiệt do thâm canh, trang trại sẽ chuyển sang khia phá vùng đất khác. Sản lượng cà phê bùng nổ từ năm 1820 đến năm 1830, vượt qua nhu cầu của người uống cà phê Brazil và bắt đầu cung cấp cho thị trường toàn cầu rộng lớn hơn. Những người kiểm soát việc sản xuất cà phê trở nên vô cùng giàu có và rất quyền lực và được gọi là “ông trùm cà phê”. Nhu cầu của họ sẽ có tác động đáng kể đến các chính sách của chính phủ và sự hỗ trợ của chính phủ đối với ngành cà phê.
Nô lệ trong một trang trại cà phê ở Brazil, năm 1882 | Ảnh: https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Slaves_working_on_a_coffee_plantation_02.jpg
Đến năm 1830, Brazil sản xuất 30% lượng cà phê trên thế giới. Con số này đã tăng lên 40% vào năm 1840, mặc dù nguồn cung tăng mạnh dẫn đến giá cà phê toàn cầu giảm. Cho đến giữa thế kỷ 19, ngành công nghiệp cà phê của Brazil phụ thuộc vào lao động nô lệ. Hơn 1,5 triệu nô lệ đã được đưa đến Brazil để làm việc trên các đồn điền cà phê.
Trong thời kỳ thuộc địa, các đồn điền cà phê ở Brazil đã làm gia tăng nạn phá rừng (việc trồng cà phê sẽ diễn ra trong vài thập kỷ và chuyển sang vùng đất khác khi đất mất đi độ phì nhiêu). Hoạt động sản xuất cà phê “bề mặt” qua này không gắn kết vào lịch sử của bất kỳ địa phương nào mà còn gắn liền với chế độ nô lệ, đàn áp – Từng có thời kỳ 1/3 dân số Brazill là nô lệ tham gia vào canh tác cà phê và nước này cũng là quốc gia sau cùng xóa bỏ chế độ nô lệ.
Với việc Brazil là nhà cung cấp cà phê hàng đầu thế giới, bất cứ điều gì ảnh hưởng đến sản xuất ở Brazil đều có tác động trực tiếp đến giá toàn cầu. Một trong những yếu tố đó là chu kỳ luân phiên của vụ mùa hàng năm của Brazil. Qua nhiều năm, rõ ràng Brazil sẽ luân phiên giữa một vụ thu hoạch lớn và thu hoạch nhỏ (bắt nguồn từ chu kỳ tự nhiên của cây phê). Một số công việc (chẵn hạn như cắt tỉa cành) đã được thực hiện trong những năm gần đây để cố gắng giảm thiểu tác động này, và ổn định hơn qua từng năm.
Nếu như biến động chu kỳ của vụ mùa có thể làm biến động nhẹ, thì băng giá tại Brazil lại có có thể làm “lật đổ” toàn bộ thị trường cà phê. Sương giá (White Frosts) hay còn gọi là sương muối sẽ làm chết những bông hoa, chồi non trong giai đoạn phát triển. Vì vậy sương muối chỉ ảnh hưởng lớn đến vụ thu hoạch năm sau, song các đợt sương muối nghiêm trọng có thể giết chế toàn bộ cây cà phê trưởng thành. Khi cà phê được tái canh sau đợt sương muối nó phải mất nhiều năm sinh trưởng cho đến khi thu hoạch.
Cây cà phê bị sương giá (sương muối) tại Brazill
Brazil từng là nước sản xuất cà phê lớn nhất bị tổn thất do sương muối. Trong quá khứ, đã có những sự cố nghiêm trọng như sương giá đen năm 1975, làm giảm gần 75% vụ mùa năm 1976/77. Do sương giá, giá cà phê toàn cầu gần như tăng gấp đôi ngay lập tức. Năm 2000 và 2001 có hai năm liên tiếp mất mùa, dẫn đến một vụ thu hoạch lớn vào năm 2002, với sản lượng cà phê khổng lồ. Điều này trùng hợp với một thời gian dài khác của giá cà phê thấp, do dư thừa cà phê trên thị trường toàn cầu.
Hoạt động sản xuất cà phê Brazil
Không thể phủ nhận Brazil là quốc gia sản xuất cà phê công nghiệp và tiên tiến nhất trên thế giới. Với việc tập trung vào năng suất và sản lượng, nó đã không giữ được danh tiếng về sản xuất cà phê chất lượng cao.
Hầu hết các trang trại lớn sử dụng các kỹ thuật hái dảy, trong đó toàn bộ cành và quả bị tước đi chỉ trong một lần. Nếu các đồn điền lớn và bằng phẳng (phổ biến ở các trang trại cà phê lớn hơn của Brazil), họ sử dụng máy thu hoạch để lắc quả cà phê rớt khỏi cành. Cả hai phương pháp đều không tính đến độ chín, và kết quả là có một số lượng lớn quả chưa chín trong cà phê đã thu hoạch.
(nguồn ảnh: Carmo de Minas, Brazil)
Một trong những vai trò quan trọng của Brazil trong ngành cà phê, là sự đóng góp đáng kể cho tính đa dạng sinh học của giống loài cà phê trên thế giới. Rất nhiều giống cà phê Arabica đột biến tự nhiên hoặc được lai tạo đã phổ biến bên ngoài biên giới Brazil và đến với khu vực Mỹ La Tinh trước phổ biến toàn cầu.
Điển hình như cây cà phê Caturra một dạng đột biến lùn của giống cà phê Boubon được thực hiện bởi Viện Nông nghiệp Brazil (Agronomic Institute of Campinas – IAC), hay giống Mundo Nouvo đang phổ biến tại khu vực Trung Mỹ cũng được lai tạo từ cà phê Brazil.
Có nhiều giống cà phê khác nhau được trồng trên khắp Brazil và đa phần chúng được sinh ra tại đây bao gồm Mundo Novo, Yellow Bourbon, Caturra và Catuai
The World Atlas of Coffee: From Beans to Brewing – Coffees Explored, Explained and Enjoyed book by James Hoffmann
Origins Coffee – Resource: www.cafeimports.comBrazil
Coffee production in Brazil: www.en.wikipedia.org
Coffea robusta hoặc Coffea canephora
Coffea liberica hoặc Coffea excelsa
4-6m (có thể đến 15m nếu mọc hoang)
4-6m (có thể đến 15m nếu mọc tự nhiên)
Brazil có tên gọi chính thức là Cộng hòa Liên bang Brazil, nằm ở Nam Mỹ. Với diện tích hơn 8,5 triệu km2, dân số 214,8 triệu người (năm 2021), quốc gia này rộng nhất Nam Mỹ, đồng thời lớn thứ năm thế giới, theo Telegraph.
Theo số liệu Tổ chức Cà phê Quốc tế, năm 2020, tổng sản lượng cà phê toàn thế giới là 169,9 triệu bao (60 kg/bao). Trong đó, Brazil chiếm 37,4% (tương đương 62 triệu bao), là nước sản xuất cà phê nhiều nhất thế giới. Việt Nam đứng thứ hai với 17,1%, kế đó Colombia 8,4%, Indonesia 7,1%, Ethiopia 4,3%...
Cây cà phê được đưa đến Brazil lần đầu vào thế kỷ 18 bởi những người nhập cư từ Pháp, sau đó nhanh chóng được trồng ở nhiều nơi. Giữa thế kỷ 19, lượng cà phê do Brazil sản xuất ngày càng nhiều, vươn lên hàng đầu thế giới và duy trì danh hiệu này suốt 150 năm qua.
Brazil được mệnh danh là một cường quốc về sản xuất cà phê khi chiếm gần 40% nguồn cung toàn thế giới. Nhiều khu vực tại Brazil có khí hậu thuận lợi cho việc canh tác cà phê như Minas Gerais, Sao Paulo và Parana. Ước tính, nước này có khoảng 220.000 nông trại cà phê với diện tích 27.000 km2. Hai loại cà phê chủ yếu của Brazil là Arabica (chiếm khoảng 70% sản lượng) và Robusta (30%).
Một đồn điền cà phê tại bang Minas Gerais, Brazil. Ảnh: Freepik
Câu 2: Trong những sản phẩm dưới đây, cái nào được Trung Quốc sản xuất nhiều nhất thế giới?
Trong niên vụ 2021/2022, tổng lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu tăng 13% so với niên vụ trước, trong đó Intimex Group là doanh nghiệp xuất khẩu cà phê lớn nhất cả nước, tiếp đến là Vĩnh Hiệp và Công ty 2/9.
Theo số liệu của của Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam (VICOFA), tổng lượng xuất khẩu cà phê trong niên vụ 2021 - 2022 khoảng 1,7 triệu tấn, gồm cả cà phê arabica và thành phẩm, tăng 13% so với niên vụ trước đó do giá trên sàn London giữ ở mức cao, thúc đẩy người dân bán ra.
Bên cạnh đó, niên vụ vừa qua, cà phê robusta của Việt Nam không chịu cạnh tranh từ mặt hàng cùng loại của Brazil do sản lượng của nước này giảm. Trong năm qua, Intimex Group là doanh nghiệp xuất khẩu cà phê lớn nhất cả nước, tiếp đến là Vĩnh Hiệp và Công ty 2/9.
Tổng lượng cà phê nhân được sử dụng để sản xuất, chế biến trong nước ước tính 300.000 tấn trong đó 130.000 tấn dùng để rang xay và 170.000 tấn dùng để chế biến cà phê hoà tan. Trong 6 tháng đầu vụ, xuất khẩu liên tục tăng (từ tháng 2/2022) với tổng khối lượng gần 1 triệu tấn, chiếm 55% tổng lượng xuất khẩu của cả vụ.
Tuy nhiên, trong 6 tháng cuối, lượng xuất khẩu giảm do người dân chỉ bán với mức giá cao. Một số tháng cuối vụ, Việt Nam còn chịu cạnh tranh từ cà phê robusta Indonesia được chào bán với mức giá thấp hơn. Theo đó, trong giai đoạn tháng 6 đến tháng 9, Indonesia vào vụ, giá Robusta rẻ hơn Việt Nam 100 - 200 USD/tấn khiến nhu cầu mua từ Việt Nam giảm mạnh.
Dịch chuyển tỷ trọng xuất khẩu cà phê giữa các quốc gia
Theo Tổ chức cà phê thế giới (ICO), xuất khẩu cà phê hòa tan toàn cầu trong tháng 10 tiếp tục tăng 10,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên 1,2 triệu bao. Tỷ trọng cà phê hòa tan trong tổng xuất khẩu cà phê toàn cầu tăng lên mức 9,5% so với 8,9% của cùng kỳ năm ngoái. Brazil, nước xuất khẩu cà phê hòa tan lớn nhất thế giới đã xuất khẩu 291.345 bao ra thị trường quốc tế trong tháng 10, giảm 6,2% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, lượng cà phê hoà tan xuất khẩu của hai nước đứng sau là Ấn Độ và Indonesia tăng tới 25% và 33,7%, đạt lần lượt 180.000 bao và 397.805 bao. Trong tháng 10, xuất khẩu cà phê của khu vực Nam Mỹ giảm nhẹ 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn gần 5 triệu bao.
Tại khu vực châu Á và châu Đại Dương, xuất khẩu của khu vực này tăng nhẹ 10.000 bao lên mức 3,2 triệu bao. Tuy nhiên, xuất khẩu của các nước trong khu vực lại có biến động trái chiều khi Ấn Độ và Indonesia lần lượt tăng 15,1% và 34,5%, trong khi Việt Nam giảm tới 19,5%.
Xuất khẩu cà phê từ châu Phi đạt 1,1 triệu bao trong tháng 10, giảm 2,4% so với cùng kỳ vụ trước. Trong đó, hai quốc gia sản xuất và xuất khẩu chính trong khu vực là Ethiopia và Uganda sụt giảm lần lượt là 10,9% và 6%.
Ngược lại, sự gia tăng được ghi nhận tại một số quốc gia khác như Burundi (316,7%), Bờ Biển Ngà (83,2%) và Kenya (46,3%). Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của ba nước này chủ yếu đến từ mức nền thấp của cùng kỳ năm ngoái.
Nguồn cung cà phê thế giới niên vụ 2022/2023 có thể thừa 4,9 triệu bao
Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ cà phê từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023 đạt 172,80 triệu bao, cao hơn 4% so với năm trước.
Cùng với đó, sản lượng sản xuất ước tính ở Brazil trong niên vụ cà phê từ tháng 7/2022 đến tháng 6/2023 sẽ cao hơn 7,8% so với niên vụ cà phê trước đó, với tổng số 62,6 triệu bao trong niên vụ 2022/23.
USDA cũng đưa ra dự báo nhu cầu cà phê toàn cầu trong niên vụ từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023 có thể đạt 167,90 triệu bao, tăng 0,48% so với năm trước. Dự báo mới nhất cho thấy khả năng nguồn cung cà phê toàn cầu dư thừa khoảng 4,9 triệu bao.
Theo Hiệp hội Cà Phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa), 2 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu khoảng 394.167 tấn cà phê, mang về giá trị khoảng 1,25 tỷ USD, tăng 15,1% về lượng và tăng 67,7% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 5 tháng đầu niên vụ cà phê (tính từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023), Việt Nam xuất khẩu khoảng 764.802 tấn cà phê, kim ngạch xuất khẩu trên 2,36 tỷ USD, tăng 1,5% về lượng và tăng 39,4% về giá trị so với cùng kỳ niên vụ trước.
Trong đó, cà phê nhân Robusta đóng góp giá trị nhiều nhất với gần 1,84 tỷ USD, cà phê nhân Arabica đạt kim ngạch hơn 56,62 triệu USD, cà phê nhân đã khử caffeine kim ngạch gần 3,2 triệu USD. Cà phê chế biến (rang xay và hòa tan) có giá trị xuất khẩu hơn 401 triệu USD.
Trong 5 tháng đầu niên vụ cà phê 2023/2024, xét về khối lượng xuất khẩu cà phê nhân sống (cà phê nguyên liệu) thì Công ty TNHH Vĩnh Hiệp dẫn đầu với 81.025 tấn. Đây là doanh nghiệp do ông Thái Như Hiệp sáng lập với thương hiệu L'amant Café, ông Hiệp hiện là Phó Chủ tịch Vicofa.
Tiếp theo là: Intimex Group, Tuấn Lộc Commodities, Simexco Daklak, Louis Dreyfus Company Việt Nam, Intimex Mỹ Phước, Phúc Sinh, NKG Việt Nam, Olam Việt Nam và Hoa Trang - Gia Lai. Bảng xếp hạng này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam chiếm thị phần lớn ở mảng xuất khẩu cà phê nhân sống.
Ở niên vụ 2022/2023, theo thống kê, các doanh nghiệp FDI xuất khẩu cà phê nhân sống chiếm thị phần khoảng 33,1% về giá trị và 71,7% về giá trị cà phê chế biến (rang xay và hòa tan).
Theo ông Thái Như Hiệp, Phó Chủ tịch Vicofa, tổng diện tích trồng cà phê cả nước khoảng 710.000 ha, nhưng thu hoạch chỉ khoảng 650.000 ha và chế biến sâu với tỷ lệ rất thấp. Chúng ta đang thiếu liên kết chuỗi giá trị từ người sản xuất đến khâu cuối cùng.
Nhận định về cà phê Việt, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ông Lê Minh Hoan từng chia sẻ tại hội thảo "Tăng giá trị cho cà phê Việt, cách nào?” tổ chức ngày 4/3/2023 rằng người Việt Nam thường chê cà phê ở châu Âu chua chua, nhạt nhạt trong khi mấy trăm năm nay họ vẫn uống như vậy; cũng như người dân nông thôn Việt Nam chê cà phê nguyên chất nhạt. Đây là câu chuyện chúng ta cần thảo luận.
“Có khi chúng ta đang ngồi nhà nghĩ cà phê của mình ngon nhất nhì thế giới, trong khi thế giới không uống cà phê của chúng ta. Cà phê Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ cà phê thế giới? Đây là cái chúng ta phải suy nghĩ để tiếp tục tái canh, tạo thương hiệu, chế biến tinh sản phẩm… Thế giới chuộng dòng Arabica nhưng Việt Nam lại lại mạnh về cà phê Robusta.”, vị Bộ trưởng nhấn mạnh.
Cũng theo số liệu từ Vicofa, Top 10 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê rang xay và hòa tan hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong đó, NESTLÉ Việt Nam (Thụy Sĩ) dẫn đầu với khoảng 57,5 triệu USD.
Tiếp theo là các thương hiệu: OUTSPAN Việt Nam, Cà phê Ngon, Tập đoàn Trung Nguyên, IGUACU Việt Nam, URC Việt Nam, TATA COFFEE Việt Nam, INSTANTA Việt Nam, SUCAFINA Việt Nam và Lựa chọn đỉnh. Như vậy, trong danh sách này chỉ có một thương hiệu Việt là Tập đoàn Trung Nguyên.